Nhiễm bệnh CMV ở trẻ em lớn và người lớn: Nhiễm bệnh cytomegalovirus (CMV) ở trẻ em lớn và người lớn gây ra hội chứng tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng. Thời gian ủ bệnh 20 - 60 ngày, xuất hiện triệu chứng bệnh sau 2 - 6 tuần với các triệu chứng: sốt kéo dài hội chứng Viêm mũi dị ứng ở trẻ con , dễ dẫn đến các biến chứng nguy hiểm , trẻ có khả năng mắc hệ quả thành chứng bệnh viêm tai giữa, căn bệnh hen phế quản. căn bệnh Viêm tai giữa ở trẻ con có khả năng dẫn đến nhiều tác hại nghiêm trọng cũng như gây ra thủng màng nhĩ , làm suy giảm sức nghe , hen Điều này khiến nhiều trẻ em, người có sức để kháng kém mắc bệnh viêm đường hô hấp. Tại các bệnh viện tỉnh và trung tâm y tế tuyến huyện, số ca nhập viện với biểu hiện ho, sốt cao, mệt mỏi do viêm đường hô hấp tăng cao so với cùng kỳ năm 2021 và những tháng Nhiễm khuẩn tiết niệu ở trẻ em gây ra một loạt các biểu hiện như ho, sốt, quấy khóc, đau bụng, đi tiểu đau rát và đi rất nhiều lần, khả năng nhiễm trùng thận là rất cao. Bài viết này sẽ giúp các bậc phụ huynh trang bị kiến thức đầy đủ về loại bệnh này. Viêm gan CMV ở trẻ có thể gây biến chứng nặng, suy giảm chức năng gan Vàng mắt, vàng da cho thấy lượng Bilirubin trong máu trẻ cao, chức năng gan suy yếu khiến cơ thể trẻ không được thải lọc tốt các chất độc hại, dư thừa. Trên da trẻ xuất hiện các vết ban đỏ, thâm tím không rõ nguyên nhân, đây là triệu chứng xuất huyết. NGn2R0X. TTO - Gần đây, Bệnh viện Nhi đồng Cần Thơ tiếp nhận nhiều trường hợp trẻ sơ sinh bị nhiễm virút CMV cytomegalovirus, hầu hết đều gây biến chứng nặng. Bác sĩ Hà Anh Tuấn - trưởng khoa hồi sức tích cực và chống độc Bệnh viện Nhi đồng Cần Thơ - cảnh báo gần đây bệnh viện tiếp nhận nhiều trường hợp trẻ sơ sinh bị nhiễm bệnh do virút CMV cytomegalovirus, đặc biệt hầu hết đều là những biến chứng nặng nề trong khi trước đây bệnh rất hiếm gặp. Bé Võ Hoài Bảo N. 6 tháng tuổi, nhập viện tại khoa trong trạng thái lơ mơ, vàng da vàng mắt, thể trạng suy kiệt. Qua thăm khám và làm các xét nghiệm phát hiện bé viêm gan do virút CMV. Theo gia đình, bé bị vàng da từ lúc mới sinh, nằm viện điều trị hơn hai tháng, tái khám định kỳ nhưng tình trạng vẫn không cải thiện. Sau thời gian điều trị tình trạng vẫn không giảm, các chức năng gan thận đều suy và bé đã tử vong. Bệnh nhân thứ hai là bé Võ Lê Nhã T. 36 ngày tuổi, nhập viện vì sốt và thở nhanh, tiền sử bé sinh non khoảng 33 tuần tuổi. Sau khi thăm khám, các bác sĩ đã cho làm xét nghiệm CMV, siêu âm tim, chụp X-quang phổi. Kết quả bé được chẩn đoán bị viêm phổi/tim bẩm sinh thông liên thất, còn ống động mạch và kết quả dương tính với virút CMV. Hiện tại tình trạng bệnh nhân rất nặng. Một bé sơ sinh khác là bé Phan Ngọc V. 35 ngày tuổi, vào viện trong tình trạng thở rên, môi tái, da nổi bông… sau khi được cấp cứu hồi sức kịp thời đã qua cơn nguy kịch. Bác sĩ đã nghi ngờ và cho làm xét nghiệm CMV, kết quả kết quả dương tính CMV/tim bẩm sinh nên tình trạng bệnh cũng khá nặng. Bác sĩ Hà Anh Tuấn nói theo y văn, CMV cytomegalovirus là loại siêu vi gây bệnh cho người ở các lứa tuổi khác nhau, từ trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ, thanh thiếu niên, phụ nữ mang thai, người lớn, người nhiễm HIV và cả người được ghép tạng. Siêu vi này được tìm thấy trong máu, nước bọt, phân, nước tiểu và cả trong dịch tiết sinh dục. Một khi CMV xâm nhập vào người có thể tồn tại lâu dài, thậm chí suốt đời trong cơ thể người bị nhiễm. Tuy nhiên ở người lớn, phần lớn người khỏe mạnh bị nhiễm CMV thường không thể hiện triệu chứng lâm sàng nào mà có thể có các triệu chứng giống cúm như sốt, đau đầu, mệt mỏi, tăng bạch cầu đơn nhân, giảm bạch cầu đa nhân trung tính. Khoảng 80% người lớn tạo được kháng thể chống CMV. Phụ nữ khi mang thai nếu nhiễm CMV có thể sinh ra trẻ dị tật, nhất là tim bẩm sinh. Đối với trẻ em bị nhiễm CMV phần lớn cũng không thể hiện triệu chứng lâm sàng, khoảng 10% số trẻ bị nhiễm CMV có thể có các triệu chứng lâm sàng nặng nề như dị tật đầu nhỏ, gan và lách to, vàng da, có các cơn động kinh, bệnh lý tim bẩm sinh và thiếu cân. Phòng bệnh bằng các biện pháp vệ sinh chung Hiện tại không có văcxin và liệu pháp đặc hiệu cho bệnh nhiễm CMV. Tốt nhất chúng ta dùng biện pháp phòng bệnh nhiễm CMV bằng các biện pháp vệ sinh chung, đặc biệt cần chú ý đến phụ nữ có thai và đang cho con bú. Việc nhiễm CMV thường lan rộng là do tiếp xúc trực tiếp với các dịch tiết của người đang bị nhiễm CMV như nước bọt, nước tiểu, phân, tinh dịch, máu, nước mắt, dịch âm đạo và sữa. Trong quá trình có thai, thai nhi có thể bị nhiễm từ người mẹ đang nhiễm CMV qua đường nhau thai, hoặc qua các dịch tiết và máu trong quá trình sinh đẻ, trẻ sơ sinh có thể bị nhiễm qua sữa của quá trình bú mẹ. Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0 Chuyển sao tặng cho thành viên x1 x5 x10 Hoặc nhập số sao Cytomegalovirus là một loại virus rất phổ biến, bình thường CMV không gây ảnh hưởng đến sức khỏe, tuy nhiên với một số đối tượng, đặc biệt là phụ nữ mang thai nhiễm CMV có thể gây tổn thương vĩnh viễn cho thai nhi. Vậy xét nghiệm CMV là gì? CMV là tên viết tắt của Cytomegalovirus, một loại virus rất phổ biến nhưng những người nhiễm bệnh lại hiếm khi xuất hiện triệu chứng đặc trưng. Thống kê tại Hoa Kỳ cho thấy có đến 50 – 85% người nhiễm CMV, đối tượng gặp phổ biến là trẻ em hoặc thanh thiếu cùng họ với các loại virus như Epstein-Barr, herpes và varicella tác nhân gây bệnh thủy đậu, giời leo. Khi xâm nhập vào tế bào, virus sao chép và nhân lên trong nhân tế bào. Quá trình sao chép tạo nên các hạt vùi lớn trong nhân và nhiều hạt vùi nhỏ hơn ở bào người, CMV được phát hiện nhân lên trong tế bào của nhiều cơ quan khác nhau như tuyến nước bọt, gan, thận, phổi, tế bào lymphocyte. Ở những bệnh nhân nhiễm CMV, virus được tìm thấy ở nhiều dịch tiết cơ thể như nước tiểu, máu, nước bọt, tinh dịch, sữa mẹ, dịch não tủy, dịch tiết âm đạo... Do đó chúng dễ dàng lây nhiễm cho người khác thông qua những con đường như tiếp xúc với máu hoặc các loại dịch tiết, quan hệ tình dục hoặc truyền từ mẹ sang khi trải qua giai đoạn nhiễm virus nguyên phát, CMV có thể chuyển sang thể bất hoạt động giai đoạn tiềm ẩn để tồn tại trong cơ thể người đến suốt cuộc đời mà không gây bất cứ triệu chứng nào và có nguy cơ tái phát trở lại khi hệ miễn dịch cơ thể bị suy yếu đáng nghiệm CMV là xét nghiệm kiểm tra sự hiện diện của Cytomegalovirus trong máu bệnh nhân. Do bệnh không gây quá nhiều ảnh hưởng đến sức khỏe nếu người nhiễm CMV là thanh thiếu niên, người khỏe mạnh nên thường không cần xét nghiệm. Hầu hết trường hợp cần làm xét nghiệm CMV là phụ nữ đang mang thai, người suy giảm miễn dịch hoặc bệnh nhân cần ghép biệt những phụ nữ mới nhiễm hoặc đã nhiễm CMV từ trước và bị tái phát có nguy cơ rất cao gây nhiễm trùng bẩm sinh cho trẻ. Thống kê cho thấy, có đến 10% trẻ sơ sinh nhiễm CMV bẩm sinh dẫn đến các tổn thương vĩnh viễn như chậm phát triển trí tuệ và bất thường về thính giác. Bên cạnh đó, nhiễm CMV bào thai có thể dẫn đến tật bại não, đầu nhỏ, não úng thủy, chậm phát triển, thậm chí tử tác nhân gây bệnh nhiễm trùng ảnh hưởng bất lợi lên thai nhi được gọi chung bằng thuật ngữ TORCH, bao gồm nhiễm Toxoplasma, bệnh khác Other, Rubella, CMV, Herpes. 2. Cytomegalovirus lây qua con đường nào? CMV có thể lây cho người thông qua nhiều con đường khác nhau nhưng thường gặp trong các trường hợp sauTruyền máu, ghép tạng Quá trình lây nhiễm CMV có thể do virus tồn tại trong máu, chế phẩm máu hoặc trong tạng của người hiến;Mẹ nhiễm CMV và truyền sang con trong quá trình mang thai và trong khi sinh do virus tồn tại trong dịch tiết âm đạo hoặc truyền qua sữa mẹ khi cho con bú; ngoài ra trong giai đoạn sơ sinh, trẻ có thể bị nhiễm CMV thông qua các hoạt động chăm sóc hàng xúc trực tiếp với các dịch tiết cơ thể người nhiễm bệnh như nước bọt, phân, nước tiểu, nước mắt, máu, tinh dịch, dịch âm đạo... Cytomegalovirus lây qua đường truyền máu, vì vậy cần xét nghiệm CMV giúp phát hiện và điều trị kịp thời 3. Ai cần xét nghiệm CMV? Xét nghiệm CMV cho người nghi nhiễmXét nghiệm CMV sẽ được thực hiện khi một người có dấu hiệu nghi ngờ đã nhiễm CMV. Virus thường gặp ở phụ nữ mang thai, trẻ em, trẻ vị thành niên và một số đối tượng nguy cơ cao như đồng tính nam, người được cấy ghép nội tạng và bệnh nhân mắc HIV/ miễn dịch suy giảm là cơ hội để các loại virus tấn công và xâm nhập cơ thể, trong đó có virus CMV và gây ra nhiều bệnh lý, biến chứng khác nhau. Những người bị suy giảm miễn dịch thường là bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS, người cấy ghép nội tạng, cấy ghép tủy xương...Nếu có những triệu chứng nghi nhiễm CMV, xét nghiệm CMV sẽ giúp xác định chính xác có thực sự mắc bệnh hay không. Xét nghiệm CMV có thể thực hiện bằng các phương pháp khác nhau như miễn dịch tự động, PCR với mẫu bệnh phẩm là máu hoặc các loại dịch tiết cơ Xét nghiệm CMV với phụ nữ mang thaiXét nghiệm CMV rất cần thiết đối với phụ nữ mang thai, đặc biệt nếu có sự xuất hiện của kháng thể IgM dù rất nhỏ đều có thể gợi ý tình trạng tái hoạt động virus và gây nhiễm virus cho thai sản phụ phát hiện nhiễm CMV trong tam cá nguyệt đầu tiên của thai kỳ sẽ được bác sĩ cân nhắc và chỉ định chọc dịch ối thai nhi để xét nghiệm có nhiễm CMV hay không. Bên cạnh đó, xét nghiệm dịch ối còn có thể giúp phát hiện tình trạng nhiễm các loại virus Xét nghiệm CMV với trẻ sơ sinhNếu bác sĩ nghi ngờ trẻ bị nhiễm virus bẩm sinh sẽ chỉ định xét nghiệm CMV trong 3 tuần đầu tiên sau sinh. Xét nghiệm này cần được thực hiện càng sớm càng tốt để xác định trẻ nhiễm virus bẩm sinh hay do nhiễm virus từ môi trường xung quanh. 4. Lưu ý khi xét nghiệm CMV Có nhiều phương pháp xét nghiệm CMV khác nhau bao gồmQuan sát trực tiếp dưới kính hiển vi;Phân lập virus;Xét nghiệm CMV - DNA bằng kỹ thuật PCR;Xét nghiệm tìm kháng thể IgM/IgG bằng phương pháp huyết thanh học, kỹ thuật này có thể thực hiện đồng thời để phát hiện nhiễm các virus khác như cúm, Epstein-Barr virus... khi người bệnh có triệu chứng cúm bao gồm mệt mỏi, viêm họng, nổi hạch, đau đầu, đau nhức cơ, khớp... Xét nghiệm CMV có thể được thực hiện bằng cách quan sát trực tiếp dưới kính hiển vi Đầu tiên, để xác định nhiễm CMV hay không, bác sĩ sẽ thực hiện cấy, phân lập và định danh CMV bằng mẫu bệnh phẩm từ các loại dịch tiết cơ thể. Tuy nhiên, phương pháp xét nghiệm CMV này không phân biệt được nhiễm CMV cấp tính hay mạn tính, virus đang hoạt động hay không hoạt đó, xét nghiệm CMV tìm kháng thể cần thực hiện để xác định chính xác tình trạng nhiễm virus. Tuy nhiên, giá thành xét nghiệm kháng thể virus CMV tương đối cao và thường tìm kháng thể IgG và nay, kỹ thuật xét nghiệm CMV bằng phương pháp PCR có độ nhạy, độ đặc hiệu cao, được áp dụng để chẩn đoán chính xác tình trạng nhiễm bệnh phẩm làm xét nghiệm CMVVới xét nghiệm nuôi cấy phân lập virus, mẫu bệnh phẩm có thể là nước tiểu, đờm hoặc nước bọt. Quá trình nuôi cấy virus trong phòng thí nghiệm virus thường mất khoảng từ 3 – 7 ngày;Đối với xét nghiệm kháng thể hoặc PCR, bác sĩ sẽ lấy mẫu bệnh phẩm là máu tĩnh biệt, đối với xét nghiệm CMV tìm kháng thể IgG/IgM, bác sĩ sẽ yêu cầu người bệnh quay lại sau 2 đến 4 tuần từ lần lấy mẫu đầu tiên để lấy mẫu bệnh phẩm bổ hiện diện của kháng thể kháng CMV ở mẫu bệnh phẩm đầu tiên gợi ý có tình trạng đã hoặc đang nhiễm CMV. Nếu số lượng kháng thể được gọi là hiệu giá kháng thể tăng lên trong vòng 2-4 tuần ở lần xét nghiệm bổ sung giúp xác định bệnh nhân đang nhiễm hoặc mới bị nhiễm CMV gần nhiễm CMV mạn tính kháng thể kháng CMV hiện diện nhưng không thay đổi trong một thời gian dài có thể tái phát ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Những người nhiễm CMV tiên phát, kháng thể IgM có thể tìm thấy rất sớm sau 4 - 7 tuần nhiễm virus và tồn tại khoảng 16 - 20 tuần, còn kháng thể IgG xuất hiện muộn hơn nhưng tồn tại lâu hơn có thể kéo dài nhiều năm. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. XEM THÊM Xét nghiệm CMV IgG dương tính có phải đang nhiễm virus? Tổng quan chung về cytomegalovirus - Phần 2 Thai phụ CMV IgM âm tính có ảnh hưởng gì? 21/07/2010 CN. Hạ Đình Bửu Thắm CN. Nguyễn Ngọc Trang Đài K. Xét nghiệm – BV Từ Dũ 1. Định nghĩa Virus Cytomegalo CMV là loại virus thuộc nhóm Herpes, tên gọi từ tế bào bị nhiễm virus phồng to lên. Đây là tác nhân có thể gây nhiều bệnh cho mọi nhóm tuổi, từ những bất thường bẩm sinh đến các rối loạn bệnh lý, đặc biệt ở người suy giảm miễn dịch. 2. Sự lây truyền và dịch tễ - CMV có mặt ở khắp nơi trên thế giới, chỉ gây dịch nhỏ. Cuộc sống cộng đồng và vệ sinh cá nhân kém là điều kiện thuận lợi cho sự lây truyền bệnh; khoảng 1% sơ sinh nhiễm CMV, tỉ lệ này cao hơn ở các nước đang phát triển. - CMV có thể hiện diện trong sữa mẹ, nước miếng, phân người và nước tiểu. Sự lây truyền theo nhiều kiểu khác nhau. Nhiễm ở tuổi chu sinh và trẻ em nhỏ xảy ra rất thường xuyên. Giai đoạn sớm thì truyền qua nhau thai, trong lúc sinh và trong sữa mẹ. Ở trẻ nhỏ thì truyền qua nước bọt. Lúc lớn thì truyền qua đường sinh dục, CMV hiện diện âm thầm trong tinh dịch và dịch tiết cổ tử cung. Nó cũng truyền qua đường máu hoặc ghép cơ quan. 80% người lớn có kháng thể. - Khoảng 40-80 % người lớn bị nhiễm CMV tại Hoa Kỳ trước tuổi 40. Ở các nước đang phát triển tỉ lệ này cao đến 90 %. 3. Tính chất CMV có tính đặc hiệu loài và tế bào, về cấu trúc và hình dạng tương tự như những herpesvirus khác, nhưng CMV chỉ có đơn độc 1 serotýp . Virus thường ẩn trong nguyên bào sợi để phân chia và tăng trưởng, được phân lập từ tế bào biểu mô ký chủ và tạo nhiều thể vùi. 4. Sinh bệnh học - Người là ký chủ tự nhiên. Lây truyền từ người sang người. Dòng CMV động vật không gây bệnh cho người. Đa số người bị nhiễm phát hiện được nhờ xét nghiệm. - Tỉ lệ mắc tăng lên ở những người nhận cơ quan ghép, hóa trị trong ung thư… Biến chứng thường gặp là viêm phổi, đặc biệt viêm phổi kẽ. - Một khi đã bị nhiễm thì người bệnh sẽ mang CMV suốt đời dù cho không có triệu chứng. CMV thường ngủ yên trong tế bào bạch cầu, sự tái hoạt CMVcó thể xảy ra khi các tế bào miễn dịch Lympho T bị suy yếu, do bệnh như nhiễm HIV hoặc sử dụng thuốc ức chế miễn dịch. - Trong trường hợp bệnh lan tỏa có thể tìm thấy CMV ở nhiều cơ quan, do sự lan tỏa của các đại bào chứa thể vùi nhưng số lượng đại bào không phản ánh được sự rối loạn chức năng của các cơ quan bị nhiễm. 5. Bệnh học Nhiễm CMV ở người lớn và trẻ em lớn Nhiễm CMV gây ra Hội chứng tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng. Thời gian ủ bệnh 20 – 60 ngày, xuất hiện triệu chứng bệnh sau 2 – 6 tuần với các triệu chứng sốt kéo dài, đôi khi lạnh run, suy yếu, khó chịu; đau cơ, lách to, viêm họng xuất tiết và viêm hạch ở cổ;…bất thường chức năng gan và bệnh lý lympho bào. Bệnh thường nhẹ, hầu hết bệnh nhân hồi phục không di chứng nhưng viêm gan cận lâm sàng lại thường gặp. Rất hiếm khi nhiễm CMV đưa đến tử vong, trừ các trường hợp bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch. Đặc biệt ở bệnh nhân được ghép thận, ghép tủy bị đè nén miễn dịch để lại biến chứng viêm phổi mô kẽ với tỷ lệ cao. Nhiễm CMV chu sinh - Trẻ sơ sinh có thể bị nhiễm CMV trong lúc sinh khi ngang qua âm đạo hoặc nhiễm sau sinh khi bú sữa mẹ hay do tiếp xúc với các dịch tiết khác của mẹ. 40 – 60 % trẻ sơ sinh bú mẹ hơn một tháng mà mẹ có huyết thanh dương tính với CMV sẽ bị lây nhiễm. - Đa số các trẻ này đều không có triệu chứng, một số trẻ có thể có triệu chứng viêm phổi kẽ kéo dài. Một số triệu chứng khác hay gặp như cân nặng lúc sinh thấp, viêm hạch, nổi mẩn, viêm gan, tế bào lympho tăng và thiếu máu. - CMV có khả năng được thải không liên tục từ hầu họng và nước tiểu trong nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Nhiễm CMV bẩm sinh - Trẻ nhiễm virus trong thời kỳ thai nghén gây bệnh thể vùi tế bào khổng lồ. Tế bào khổng lồ được tạo thành gọi là Cytomegalo, có nhiều nhân nổi bật, nhiều thể vùi trong nhân. Nhiều cơ quan cũng bị nhiễm dẫn đến bất thường bẩm sinh. - Hầu như chỉ những thai nhi có mẹ bị nhiễm CMV lần đầu trong khi mang thai mới có triệu chứng lâm sàng. - Thai nhi có nhiều dạng biểu hiện lâm sàng từ không có triệu chứng đến thể nặng và lan rộng toàn thân. Một số triệu chứng như đốm mảng xuất huyết, gan, lách to, vàng da 60-80%, teo não và đầu nhỏ, nhu mô não bị vôi hóa, chậm phát triển trong tử cung30-50%, thoát vị bẹn và viêm võng mạc ít thấy hơn. Xét nghiệm cận lâm sàng men gan tăng, tiểu cầu giảm, bilirubin cao, tán huyết, protein trong dịch não tủy cao. Tiên lượng xấu tỉ lệ tử vong 20 - 30% , nếu còn sống sót có thể dẫn đến trì trệ tâm thần ở trẻ và điếc khi lớn lên. Gần như các trường hợp CMV bẩm sinh không có triệu chứng lâm sàng rõ rệt và sau này, 5-25% sẽ bị chậm phát triển tâm thần, mù, răng hỏng bất thường. 6. Chẩn đoán Các xét nghiệm giúp chẩn đoán xác định nhiễm CMV phân lập siêu vi CMV, tìm kháng thể - kháng nguyên CMV, thử nghiệm PCR tìm CMV-DNA hoặc quan sát trực tiếp bằng kính hiển vi điện tử. Phân lập virus- Bệnh phẩm nước rửa họng, nước tiểu. - Cấy bệnh phẩm vào tế bào và quan sát sự thay đổi tế bào sau 1-2 tuần lễ sẽ cho hình ảnh tế bào bị phồng to chứa nhiều thể vùi trong nhân tế bào. - Do sự hủy hoại tế bào xảy ra chậm 1-2 tuần nên khuyết điểm của phương pháp này là thời gian đọc kết quả lâu. - Phân lập virus kết hợp với chuyển đổi huyết thanh là phương pháp tốt nhất để chẩn đoán sơ nhiễm CMV ở người bình thường. Chẩn đoán huyết thanh học- Thử nghiệm trung hòa, miễn dịch huỳnh quang tìm kháng thể rất hữu ích trong chẩn đoán các trường hợp nhiễm trùng bẩm sinh nhưng không có biểu hiện lâm sàng. - Kháng thể đặc hiệu chống virus Cytomegalo là IgM, IgA và IgG. Kháng thể có trong sữa mẹ không ngăn chặn được sự lây truyền từ mẹ sang con và hạn chế được sự trầm trọng của bệnh. - Khi nhiễm CMV thì mang IgG dương tính suốt đời 7. Phòng bệnh - Hiện vẫn chưa có vaccine dự phòng CMV. - Sàng lọc kĩ máu trước khi truyền máu, sàng lọc tủy xương tạng ghép trước khi đưa vào người nhận - Trẻ bị bệnh thể vùi tế bào khổng lồ thải virus qua nước tiểu phải cách ly với những trẻ khác. - Có thể sử dụng CMV-globulin miễn dịch tiêm để hạn chế bớt các trường hợp nhiễm khi ghép tạng hoặc dự phòng nhiễm cho các bé có mẹ nhiễm tiên phát CMV trong lúc mang thai. Acyclovir hay valacyclovir có thể hạn chế bớt sự lây nhiễm CMV cho người nhận tạng ghép. 8. Điều trị Hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho người nhiễm có thể làm giảm triệu chứng ở người suy giảm miễn dịch nhiễm CMV. Tài liệu tham khảo 1. Lý Văn học. Nhà xuất bản y học2. Bộ y tế. Trường ĐHYD học. Bộ môn vi sinh3. Hương Cát. Viện Thông tin y học Trung ương Virus cytomegalo CMV là một loại virus gây nhiễm trùng thường gặp. Nhiễm trùng cytomegalovirus có thể tấn công bất kỳ ai, đặc biệt là phụ nữ mang thai, trẻ em, những người có hệ miễn dịch kém, suy giảm hệ miễn dịch. Virus cytomegalo CMV là giống virus thuộc họ Herpesviridae hoặc Herpesviruses. Cái tên cytomegalo bắt nguồn từ Hy Lạp, có nghĩa là tế bào lớn. Đây là loại virus được nghiên cứu nhiều nhất của tất cả Cytomegalo thuộc phụ họ Betaherpesvirinae, có liên quan đến các Herpesviruses khác trong phụ họ của Alphaherpesvirinae và phụ họ Gammaherpesvirinae subfamily gồm Epstein-Barr virus. Tất cả các virus này có thể ẩn náu trong cơ thể một thời gian dài. Tuy virus cytomegalo có thể tìm thấy ở khắp mọi nơi trong cơ thể nhưng nhiễm trùng CMV thường liên quan đến tuyến nước cytomegalo là virus double-stranded DNA virus và là một phần của họ Herpesviridae. Cytomegalo chia sẻ nhiều sự quy kết với các loại virus herpes khác, gồm cấu trúc bộ gen, virion và có thể gây ra các tình trạng nhiễm trùng tiềm tàng và trường Mỹ có ít nhất 60% dân số phơi nhiễm với virus CMV. Tại các nước đang phát triển, hầu hết tình trạng nhiễm trùng mắc phải ở trẻ nhỏ; còn ở các quốc gia phát triển thì 50% người trưởng thành có kết quả huyết thanh được chẩn đoán CMV âm tính. 2. Cytomegalovirus gây bệnh gì? Virus cytomegalo gây ra tình trạng nhiễm trùng không triệu chứng, do đó thường rất khó phát hiện bệnh Virus cytomegalo gây ra tình trạng nhiễm trùng không triệu chứng, do đó thường rất khó phát hiện bệnh. Virus vẫn tồn tại tiềm tàng bên trong cơ thể con người suốt cuộc đời và có thể tái hoạt động bất cứ lúc nào. Cơ thể được xác định là nhiễm trùng khi phân lập CMV, các protein virus của CMV hoặc nucleic acid từ một mô hay dịch cơ thể bất liên quan đến virus gây bệnh thủy đậu, herpes simplex. Ở những người bị suy giảm miễn dịch, khi mắc các bệnh do CMV gây ra thường có biểu hiện như hội chứng tăng bạch cầu đơn đã nói, một khi cơ thể đã nhiễm CMV thì nó sẽ tồn tại trong cơ thể suốt đời. Chu kỳ của CMV gồm giai đoạn ở thể ngủ và giai đoạn hoạt động trở lại. Khi cơ thể khỏe mạnh, CMV chủ yếu không hoạt động. Khi hệ miễn dịch bị suy giảm, CMV có thể tái hoạt động và gây ra bệnh lý cho cơ thể. 3. Virus cytomegalo lây truyền như thế nào? Nhiễm trùng cytomegalovirus có thể lây truyền từ người này sang người khác thông qua việc tiếp xúc với dịch cơ thể của người bệnh, bao gồm máu, nước bọt, nước tiểu, sữa, tinh chỉ có thể lây truyền trong giai đoạn virus đang hoạt động. Nghĩa là nếu tiếp xúc với người mang virus trong thời gian virus ngủ thì sẽ không bị lây. Phụ nữ đang mang thai và nhiễm trùng CMV tiến triển thì có thể truyền virus sang hoạt động có thể gây lây nhiễm CMV bao gồmChạm vào mắt, lỗ mũi, miệng của mình sau khi tiếp xúc với dịch của người nhiễm virus. Đây là con đường lây truyền CMV phổ biến nhất;Quan hệ tình dục không sử dụng bao cao su với người nhiễm virus;Lây từ mẹ sang con thông qua sữa mẹ. Tuy nhiên trường hợp này rất ít khi xảy ra;Lây qua việc truyền máu, cấy ghép các cơ quan trong cơ thể;Lây từ mẹ sang con thông qua nhau thai. Cytomegalovirus lây truyền từ mẹ sang con thông qua nhau thai 4. Triệu chứng nhiễm trùng cytomegalovirus Trẻ sơ sinh nếu bị nhiễm CMV bẩm sinh từ trong bụng mẹ, trẻ bị nhiễm CMV trong sinh hoặc sau sinh do bú sữa mẹ hoặc hệ miễn dịch kém thường có nhiều nguy cơ tiến triển các triệu chứng hơn những người khỏe Triệu chứng nhiễm CMV ở trẻ emPhụ nữ nhiễm CMV trước khi mang thai có thể truyền virus sang con. Nếu là nhiễm CMV nguyên phát thì nguy cơ truyền sang con cao hơn là nhiễm CMV tái phát. Quá trình lây nhiễm thường diễn ra trong khoảng 3 tháng đầu thai số trẻ nhiễm CMV trong thời gian mang thai thường có biểu hiện bình thường khi sinh. Các dấu hiệu sẽ tiến triển dần theo thời gian, phải mất vài tháng, thậm chí là vài năm. Triệu chứng thường gặp nhất ở trẻ nhiễm CMV ngay sau sinh là mất thính lực hoạc tiến triển suy yếu thị bị nhiễm CMV bẩm sinh thường rất yếu và có xu hướng ngày càng yếu đi. Các triệu chứng nhiễm CMV của trẻ bao gồmTrẻ bị vàng mắt, vàng da;Trên da có vết thâm tím, ban đỏ;Trẻ sinh ra nhẹ cân;Trẻ bị phì đại lá lách;Trẻ bị phì đại gan, chức năng gan kém;Trẻ bị khó thở;Co Triệu chứng nhiễm trùng cytomegalovirus ở người suy giảm miễn dịchNhững người suy giảm miễn dịch bị nhiễm CMV thường có biểu hiện giống như một loại bệnh truyền nhiễm. Virus này cũng có thể tấn công các cơ quan khác trong cơ thể. Triệu chứng cụ thể bao gồmSốt;Tiêu chảy;Viêm phổi;Viêm gan;Viêm não;Loét ống tiêu hóa;Thay đổi hành vi;Suy giảm thị lực, thậm chí là mù lòa;Co giật; Triệu chứng nhiễm CMV ở người khỏe mạnhĐa số những người khỏe mạnh nhiễm CMV thường ít có biểu hiện cụ thể. Các triệu chứng thường tương tự như nhiễm trùng, gồm sốt, đau nhức cơ thể, mệt mỏi. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. XEM THÊM Nhiễm virus cytomegalo CMV khi mang thai Lưu ý khi xét nghiệm CMV Bệnh do virus Cytomegalo gây điếc Nhiễm Cytomegalovirus có thể xảy ra trước khi sinh hoặc chu sinh. Đây là một trong những bệnh nhiễm virus bẩm sinh thường gặp nhất. Các dấu hiệu khi sinh, nếu có, là chậm tăng trưởng trong tử cung, đẻ non, não nhỏ, vàng da, xuất huyết dưới da, gan lách to, vôi hóa quanh não thất, viêm thị giác, viêm phổi, viêm gan, và điếc. Nếu nhiễm sau khi sinh, các dấu hiệu có thể bao gồm viêm phổi, gan lách to, viêm gan, giảm tiểu cầu, hội chứng giống nhiễm trùng, và tăng lympho bào không điển hình. Chẩn đoán nhiễm trùng sơ sinh tốt nhất được thực hiện bằng cách phát hiện vi rút thông qua nuôi cấy hoặc xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase. Điều trị chủ yếu mang tính hỗ trợ. Truyền tĩnh mạch Ganciclovir hoặc uống valganciclovir có thể ngăn cản sự suy giảm thính giác và cải thiện kết quả phát triển thần kinh. Chỉ định cho trẻ sơ sinh nhiễm CMV có triệu chứng bệnh được xác định ở giai đoạn sơ nhân Cytomegalovirus CMV cần được cách ly với các trẻ sơ sinh khác. Bệnh nhân Cytomegalovirus CMV cần được cách ly với các trẻ sơ sinh khác Mặc dù hầu hết trẻ sơ sinh nhiễm CMV đều không có triệu chứng nhưng có nguy cơ phát tán có dữ liệu rõ ràng về thời điểm nhiễm CMV tiên phát ở những phụ nữ có thai có thể an toàn. Tuy nhiên có rất ít chuyên gia khuyến cáo nên xét nghiệm thường quy kháng thể CMV trước hoặc trong quá trình mang thai ở phụ nữ khỏe mạnh. Nhiễm CMV bẩm sinh, xảy ra trong khoảng từ 0,2 đến 1% số trẻ sơ sinh sống trên toàn thế giới, hậu quả từ nhiễm trùng trực tiếp qua bánh rau ở những bà mẹ nhiễm CMV nguyên phát hay tái phát. Biểu hiện lâm sàng có thể rõ ràng ở trẻ sơ sinh của những bà mẹ có nhiễm CMV tiên phát, đặc biệt là nhiễm trong nửa đầu thai kỳ. Ở một số quốc gia với nền kinh tế xã hội phát triển như Hoa Kỳ, khoảng 50% phụ nữ trẻ thiếu kháng thể với CMV, có nguy cơ nhiễm tiên phát tong quá trình mang thai. Các triệu chứng và dấu hiệu của nhiễm CMV bẩm sinh và chu sinh Khoảng 10% trẻ sơ sinh nhiễm CMV bẩm sinh có triệu chứng lúc sinh. Các biểu hiện bao gồm Chậm tăng trưởng trong tử cungXuất huyết dưới daGan lách toVôi hóa quanh não thấtViêm võng mạcViêm ganViêm phổiTrẻ sơ sinh nhiễm CMV lúc sinh hoặc sau sinh, đặc biệt là trẻ đẻ non, có thể bị hội chứng giống như nhiễm khuẩn huyết, viêm phổi, gan lách to, viêm gan có thể dẫn đến suy gan, xuất huyết giảm tiểu cầu và tăng lympho bào không điển hình. Tuy nhiên, nếu lây truyền qua sữa mẹ, nguy cơ bệnh biểu hiện nặng và di chứng lâu dài sẽ thấp hơn. Nuôi cấy virut trong nước tiểu, nước bọt, hoặc môXét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase PCR bằng cách sử dụng nước tiểu, nước bọt, máu hoặc môỞ trẻ sơ sinh, việc phát hiện virut bằng cách sử dụng nuôi cấy hoặc PCR của nước tiểu, nước bọt, hay mô là công cụ chẩn đoán chính; chẩn đoán của người mẹ cũng có thể được thực hiện bằng xét nghiệm huyết thanh học hoặc PCR xem Chẩn đoán Chẩn đoán Cytomegalovirus CMV, vi rút herpes người type 5 có thể gây nhiễm trùng có nhiều mức độ nghiêm trọng. Hội chứng tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn nhưng không kèm viêm họng nghiêm trọng thì... đọc thêm . Mẫu cấy được làm lạnh đến khi tiêm tế bào nguyên bào sợi. CMV bẩm sinh được chẩn đoán nếu virus được xác định trong nước tiểu, nước bọt, hoặc các chất dịch cơ thể khác thu được trong vòng 2 đến 3 tuần đầu tiên của cuộc đời; nước tiểu và nước bọt có độ nhạy cao nhất. Sau 3 tuần, phát hiện vi rút có thể cho thấy nhiễm trùng chu sinh hoặc bẩm sinh. Trẻ sơ sinh có thể thải CMV trong nhiều năm sau với cả trường hợp nhiễm bẩm sinh hay sau sinh. Công thức máu CBC có công thức bạch cầu và xét nghiệm về gan có thể hữu ích nhưng không đặc hiệu. Siêu âm não hoặc CT sọ não và khám mắt cần được chỉ định trong nhiễm CMV. Vôi hóa quanh não thất thường thấy trên CT. Đo chức năng thính giác nên được tiến hành ở tất cả những trường hợp trẻ sơ sinh bị nhiễmCMV và cần theo dõi sát sau đó do tình trạng giảm thính lực có thể phát triển sau giai đoạn sơ sinh và tiếp tục tiến triển thêm. Trẻ sơ sinh có triệu chứng có tỷ lệ tử vong lên đến 30%. 40% đến 90% những trẻ sống sót có một thể phát triển các vấn đề thần kinh bao gồm Rối loạn thị giácTrong số trẻ sơ sinh không triệu chứng, 5% đến 15% trẻ có di chứng thần kinh; trong đó mất thính giác là phổ biến nhất. Ganciclovir hoặc valganciclovir điều trị cho trẻ sơ sinh có triệu chứng 1. Kimberlin DW, Jester PM, Sánchez PJ, et al Valganciclovir for symptomatic congenital cytomegalovirus disease. N Engl J Med 372 10933-943, 2015. doi Phụ nữ mang thai chưa có miễn dịch nên tránh tiếp xúc với nguồn virus. Phụ nữ mang thai chưa có miễn dịch nên tránh tiếp xúc với nguồn virus Ví dụ, vì nhiễm CMV thường gặp ở trẻ em đến trung tâm chăm sóc ban ngày, phụ nữ mang thai nên luôn rửa tay sạch sau khi tiếp xúc với nước tiểu và các chất tiết đường miệng hoặc đường hô hấp của thể tránh được bệnh CMV chu sinh liên quan đến truyền máu bằng cách truyền máu ở trẻ sinh non bằng máu với CMV âm tính hoặc các sản phẩm từ máu đã làm sạch bạch cầu. 1. Revello MG, Lazzarotto T, Guerra B, et al A randomized trial of hyperimmune globulin to prevent congenital cytomegalovirus. N Engl J Med 370141316–1326, 2014. doi Hughes BL, Clifton RG, Rouse DJ, et al A trial of hyperimmune globulin to prevent congenital cytomegalovirus infection. N Engl J Med 3855436–444, 2021. doi Cytomegalovirus CMV là bệnh nhiễm vi rút bẩm sinh thường nhất, bệnh có thể không có triệu chứng hoặc có triệu cơ quan có thể bị ảnh hưởng, và nguy cơ sinh non tăng biệt nhiễm CMV bẩm sinh có triệu chứng với các bệnh nhiễm bẩm sinh khác như toxoplasmosis, rubella, vi rút viêm màng não - màng nhện tăng lympho bào, giang mai bằng sử dụng xét nghiệm phải ứng chuỗi polymerase PCR hoặc nuôi cấy vi tĩnh mạch ganciclovir hoặc uống valganciclovir có thể giúp ngăn ngừa tình trạng giảm thính giác và chậm phát triển ở trẻ sơ sinh nhiễm CMV có triệu chứng.

nhiễm cmv trẻ em